Những điều bạn cần biết về một số phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam

Những điều bạn cần biết về một số phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam

Phong tục của 54 dân tộc ở Việt Nam tạo nên sắc thái văn hóa vô cùng đa dạng. Những phong tục này giúp cho ta có thể nhận biết giữa dân tộc này với dân tộc kia. Con người Việt Nam từ xa xưa đều gắn bó tha thiết với quê hương đất nước, tình làng nghĩa xóm khắn khít với nhau. Tuy vậy phong tục tập quán của Việt Nam đa dạng là thế, nhưng những phong tục ấy vẫn còn tồn tại mãi đến tận bây giờ. Vì vậy, muốn hiểu biết về các nền văn hoá truyền thống của các cộng đồng dân tộc là phải tìm hiểu qua các phong tục, tập quán. HRV sẽ cùng bạn khám phá những điều mới lạ trong các nền văn hóa của đồng bào các dân tộc Việt Nam.

Các phong tục mới lạ của các dân tộc vùng cao

Các phong tục mới lạ của các dân tộc vùng cao

Phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam là cả một đề tài vô tận. Cả 54 dân tộc có biết bao nhiêu là hiện tượng, sự kiện văn hoá rất đáng quan tâm. Những vẻ đẹp trong những bộ y phục, trong đồ uống, thức ăn, những cách thức thờ cúng, cách tổ chức ngày sinh nhật, những nề nếp độc đáo trong các cuộc tang ma, cưới hỏi… là những hiện tượng mang đậm ý nghĩa văn hoá truyền thống. Vì thế mà có người đã cho rằng, muồn hiểu biết về văn hoá truyền thống của các cộng đồng phải tìm hiểu qua các phong tục.

Sự tích rượu cần của các dân tộc vùng cao Tây Bắc

Các dân tộc thiểu số, hầu như nơi nào cũng uống rượu cần. Hiện nay, chúng ta chưa sưu tầm được hết sự tích rượu cần của các dân tộc, chỉ mới biết người Mường, người Thái giải thích lý do ra đời của rượu cần.

Câu chuyện về Rượu Cần

Một ông cụ có hai người con dâu. Cụ muốn thử xem ai là người thông minh, đức hạnh. Cụ bảo: Bố đi ăn uống đã nhiều, nhưng chưa được ăn con vật gì mà thịt lại nằm trong xương, cũng chưa được uống loại nước gì chảy ngược cho ngọt ngào, ý vị. Các con cố tìm cho bố. Được ăn uống những thứ đó, bố mới khoẻ ra được.

Cô dâu cả nghĩ mãi, không hiểu là thức ăn thức uống gì. Cô dâu thứ hai cũng bí, hỏi chỗ này chỗ khác cũng không ai biết thức ăn ấy ra sao. Chị buồn rầu ra suối ngồi nghĩ. Bỗng chị nhìn thấy con ốc bên bờ suối. Thôi phải rồi! Con ốc, ruột trong mềm, vỏ ngoài cứng, thế chẳng phải thịt nằm trong xương hay sao? Bên bờ suối, lại có ai đã cắm một cái vòi chuyền cho nước chảy ngược lên máng.

Muốn nước chảy ngược cũng phải làm như vậy. Chị liền bắt một mớ ốc về nấu canh, múc một bầu nước, vót cái cần cắm vào bầu. Cứ để nước lã như thế thì sẽ chẳng có mùi vị gì, chị bỏ vào bầu vài nắm lá thuốc trong rừng. Đưa về nhà thì ông cụ đang đi vắng. Chị dấu kín các thức đã chuẩn bị, chờ bố về đưa nộp.

Người dâu cả đang nghĩ chưa ra cách, thấy em dâu thứ dấu thì bực, liền lén bỏ vào bình một nắm bã trấu và tấm vụn. Không ngờ như thế lại làm cho bình nước thêm chất – Lá, trấu, tấm quện lại, lên men, hoá thành một thứ rượu ngọt. Ông bố ăn canh ốc rối cầm cần hút. Đúng là nước thân nước thương chảy ngược và canh thịt nằm trong xương. Ông cụ khen nức khen nở, giao cả cơ nghiệp cho cô em. Và lịch sử xa xôi của bình rượu cần có từ đó.

Sự tích rượu cần của các dân tộc vùng cao Tây Bắc

Dân tộc Ê Đê – Phong tục trao vòng cầu hôn

Để tỏ lòng mong muốn cầu hôn hay hứa hôn, nhiều dân tộc ở Việt Nam thường có tục trao vòng. Dân tộc nào còn theo chế độ mẫu hệ thì bên nữ trao vòng, bên nam nhận vòng. Ngược lại nếu theo chế độ phụ hệ thì bên trai trao vòng, bên gái nhận vòng. Nhận vòng là bằng lòng, phải giữ lòng chung thuỷ.

Trai gái Ê Đê đã yêu nhau, họ báo cho gia đình biết để sắp xếp lễ đính hôn. Gia đình bên gái nhờ ông đăm đai (ông cậu) sang nhà trai đặt vấn đề xin cưới, hẹn ngày gặp và chuẩn bị trao vòng (trôk kôông). Đến ngày hẹn, họ hàng nhà gái đến nhà trai làm lễ. Hai già làng có uy tín đại diện hai bên bàn bạc. Mỗi bên đại diện đặt trên chiếu một cái vòng bạc. Khi hoàn toàn đồng ý, họ cầm vòng lên trao cho đôi nam nữ. Chàng trai và cô gái yêu nhau mỗi người đeo một cái vòng ấy. Và sau là đến việc tổ chức lễ cưới.

Trường hợp chàng trai bội ước, không làm lễ cưới, thì anh ta phải trả cho cô gái một khoản phạt bằng hiện vật, và làm cho cô gái một lễ hiến sinh (một con lợn).

Dân tộc Ê Đê - phong tục trao vòng cầu hôn

Phụ nữ Thái đen – Chiếc khăn piêu

Ý nghĩa của chiếc khăn Piêu

Trang phục của người Thái đen và Thái trắng về cơ bản là giống nhau. Nhưng điểm độc đáo trong trang phục của người phụ nữ Thái đen là chiếc khăn Piêu. Chiếc khăn Piêu mang một nét văn hóa riêng hấp dẫn và độc đáo. Mỗi chiếc khăn là một câu chuyện thể hiện qua họa tiết, sắc màu để nói lên tâm tư, tính cách của mỗi người phụ nữ.

Khăn đội đầu của phụ nữ Thái gọi là khăn piêu, có thể xem là một đặc trưng văn hoá. Nhìn khăn đội đầu, người ta có thể phân biệt được người đó thuộc dân tộc nào, thậm chí có thể phân biệt được các ngành khác nhau trong cùng một dân tộc.

Cách tạo nên chiếc khăn Piêu

Khăn piêu của phụ nữ Thái đen dệt bằng sợi bông nhuộm màu chàm tím sẫm. Mặt khăn piêu gọi là Nả piêu, được thêu bằng những đường chỉ ngũ sắc, tạo ra những đường dây hoa văn, gọi là dây Sài peng (dây tình). Các sợi dây tình này, đan xen vào nhau, tạo thành các hình vuông, hình ngôi sao xéo tám cánh, đối nhau từng đôi một.

Hai đầu khăn piêu là vải ngũ sắc, các góc tết thành sừng, gọi là cút piêu. Cút piêu là những hình tròn như đồng xu quấn chỉ dày, đậm. Khi đã tìm hiểu nhau rồi, đi đến đính ước, thì khăn piêu trở thành vật tin. Piêu là quà biếu khi về nhà chồng, là sợi dây tình. Và cũng có thể là vật dâng cúng trong ngày lễ.

Cuộc sống hiện đại  nhưng chiếc khăn Piêu vẫn gắn liền với người phụ nữ Thái đen. Khăn Piêu là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời thể hiện bởi bàn tay khéo léo của người con gái Thái đen.  Khăn Piêu trở thành một sản phẩm văn hoá và tinh thần in đậm bản sắc dân tộc Thái đen.

Phụ nữ Thái đen - phong tục Chiếc khăn piêu

Dân tộc Dao – Mừng ngày sinh nhật

Một số dân tộc vùng núi xa xôi vẫn có tục tổ chức ngày sinh nhật để mừng. Chủ yếu là mừng người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên). Chẳng hạn như người Dao. Tiếng Dao gọi là Sèng nhật. Người ta trước hết mừng sinh nhật ông bà, cha mẹ hoặc người cao tuổi nhất trong nhà, chứ không mừng tràn lan cho tất cả mọi người.

Năm đầu tiên, mời đông khách nhất, gồm họ hàng thân thích, hàng xóm láng giềng. Trước đó, gia đình chuẩn bị các đồ ăn thức uống. Phải dọn một mâm lên bàn thờ, mời thầy cúng khấn báo với tổ tiên là ngày này mừng sinh nhật ai, mời tổ tiên cùng về ăn cỗ. Khách đến dự lần lượt đến chào người được mừng sinh nhật, tặng quà và chúc những lời tốt đẹp. Những năm tiếp theo, nếu không có điều kiện thì không mời khách, nhưng vẫn làm cỗ trong gia đình để các cụ được vui.

Dân tộc Dao - phong tục Mừng ngày sinh nhật

Dân tộc Thái – Bát canh rêu đá

Trong các ngày lễ lạt, người Thái cũng dùng các món ăn: thịt, cá, nộm và canh xương hầm măng; hầm đu đủ, nhưng giá trị nhất phải là bát canh rêu đá, tiếng Thái gọi là Kênh tau.

Người ta cho rằng thơm và ngon nhất là rêu đá ở Mường Lò (Văn Chấn) lại cho rằng không nơi nào có rêu đá ngon bằng ở suối núi (Nậm Thia). Vì nơi đây có câu chuyện tình đau thương và cảm động. Truyền thuyết kể rằng có đôi trai gái yêu nhau, song bị bố mẹ ngăn cản. Nàng khóc, nước mắt chảy xuống ướt chín quả đồi, ướt mười ngọn núi, thành một dòng nước chảy xuyên rừng.

Chàng trai nhớ thương bạn, đã lao đầu xuống dòng nước ấy. Thân thể chàng bị tan ra thành nhiều mảnh đá. Tóc xanh của người con gái bám vào những mảnh đá ấy, biến thành rêu xanh. Rêu đá suối Thia là kết quả của thiên tình sử bi thương. Ăn canh rêu đá ấy thì sẽ đậm đà tình thương nỗi nhớ.

Dân tộc Thái - phong tục Bát canh rêu đá

Nguồn: bienphongvietnam.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sự kiện - Lễ hội